Trung dược lâm sàng giám dụng chỉ mê

Đương quy và kê huyết đằng

ĐƯƠNG QUY CÙNG KÊ HUYẾT ĐẰNG

Công hiệu khác nhau

Đương quy cùng kê huyết đằng đều bổ âm, hoạt thuyết. Nhưng đương quy bổ huyết lực thắng hơn hoạt huyết, cho nên nó là yếu dược để bổ huyết.

Mà kê huyết đằng hoạt huyết hơn bổ huyết, cho nên nó là giai phẩm hành huyết. Vả lại đương quy công dụng điều kinh khác, nó kiêm tiêu thũng, khỏi đau, nhuận tràng, thông tiện. Mà kê huyết đằng chữa tê thấp lực thắng lại hay thư giãn gân cốt, thông kinh lạc, trừ phong thắng thấp.

Chủ trị khác nhau

1 –   Đương quy chủ trị huyết hư, kinh nguyệt không đều

Kê huyết đằng chủ trị chân tay ma mộc, chân tay mình mẩy ghẻ lở.

Đương quy bổ huyết, hành huyết, công dụng điều kinh, dùng cho các chứng huyết hư, hoặc kinh nguyệt không đều, khi hành kinh thì đau bụng, kinh bế, băng lậu.

Như “Lan thất bí tàng” Đương quy bổ huyết thang (Hoàng kỳ một lạng, đương quy 2 đồng, dã nát, sắc thang, uống lúc đói) trị mất máu nhiều quá, ma sau lại có chứng huyết hư – sắc mặt vàng, tinh thần mệt thiếu sắc, hoặc nhiệt thấp quá, mạch hư vô lực.

“Kỳ hiệu lương phương”. Đương quy tán (đương quy, xuyên khung, thược dược, sơn thù du, hoàng cầm, bạch truật. Trị kinh nguyệt không đều. hoặc 3-4 tháng không thấy kinh, hoặc một tháng hai lần, đau đầy bụng. Kê huyết đằng hành huyết, bổ huyết, cũng dùng cho huyết hư, kinh không đều. Nhưng bổ huyết điều kinh công dụng không bằng đương quy.

Kê huyết đằng thư cân, thông lạc, hoạt huyết, bổ huyết. Lại chữa các chứng huyết hư, kinh lạc trở chân tay ma mộc thân thể mụn nhọt, bồn chân tay không dùng được, dùng kê huyết đằng, phối hợp với thạch quyết minh, long đởm thảo, thân cam thảo hoạt huyết đằng, bạch cương tằm, thanh mộc hương, thủ ô (giang tô trung y – 1965)

2 – Đương quy chủ trị ung thư thũng độc, thương tích đánh nhau hoặc bị đòn.

Kê huyết đằng chủ phong thấp tê liệt. Đương quy hòa huyết, hành ứ, tiêu thũng chỉ thống, dùng chữa ứ huyết trở trệ gây các bệnh ung nhọt âm thư, sang độc, thương tích bị đòn đánh.

Như “Chính trị chuẩn thằng” Đương quy ẩm tử (đương quy, xuyên khung, bạch thược, sinh địa, phòng phong, tật lê, kinh giới, hà thủ ô, hoàng kỳ, cam thảo) trị mụn nhọt, ghẻ lở, sang độc.

“Y học nhập môn” Đương quy tu tán (quy vĩ, hồng hoa, đào nhân, cam thảo, xích thược, ô dược, hương phụ, tô mộc, quế tâm, trị thương tích bị đòn, hoặc ngã.

Kê huyết đằng bổ huyết, hoạt huyết, thư cân hoạt lạc, khứ phong thắng thấp, dùng chữa phong thấp, tê liệt. Như trị liệu phong thấp nhiệt, các khớp xương đỏ, thũng nhiệt thống, xung quanh khớp xương có ngạnh kết đỏ như phát ban; dùng ngay đan bì, xích thược, tử thảo, đan sâm, đào nhân, hồng hoa. Kê huyết đằng (Giang Tây y dược Tạp chí 1965)

3 – Đương quy chủ tràng táo, tiện bí

Kê huyết đằng chủ xích bạch đới hạ

Đương quy nhuận tràng thông tiện, dùng chữa tràng táo tiện bí, thường phối hợp với ngưu tất, nhục thung dung, hỏa ma nhân, chỉ xác.

Kê huyết đằng hoạt huyết, khứ phong, thắng thấp.

Chủ trị ứ, thấp, chủ xích bạch đới hạ, lại hay hơn là chữa xích đới và hắc đới. Thường dùng xuân căn bì, kê quán hoa, trắc bánh diệp, hoàng bá.

Đặc thù điều trị khác nhau

Đương quy chủ khái nghịch thượng khí. Như “Cảnh nhạc toàn thu. Trinh nguyên ẩm, trị khí đoản giống như bệnh suyễn, thở hút rất gấp, đề mà chẳng thăng được, yết hầu thì không giáng được, khí đạo ế tắc, thế kịch đã đến lúc nguy hiểm.

“Tu mục lỗ ban hậu lục” Quan âm cái khổ tán. Trị ho hay như thẩn. Dùng nhân sâm, đương quy, hoạt thạch, cam thảo, túc xác.

“Y thuần tịch nghĩa” tư thận tức phong thang : đương quy, cúc hoa, mỗi vị 2 đồng, thục địa hoàng, thỏ ty tử mỗi thứ 4 đồng, câu kỷ tử, ba kích thiên, hy thiêm thảo mỗi thứ  3 đồng, thiên ma 8 phân, sao độc hoạt 1 đồng, đại táo 10 quả, sinh khương 3 lát sắc thang. Trị thận phong, đầu, mắt choáng váng mờ mịt. Trong lòng mơ màng, sợ hãi, sợ người, thường mơ màng như người nằm ngủ.

“Toàn quốc tuyển biên” Bì phụ khoa. Trị thoát phát đương quy, bá tử nhân mỗi thứ một cân nghiền nhỏ luyện mật làm hoàn, mỗi ngày 3 lần, mỗi lần dùng từ 2 đến 3 đồng.

“Cổ kim y giám” Tâm tiên hoàn: Trắc bách diệp 8 lạng (sấy khô) đương quy thân 4 lạng tán nhỏ, cho nước tẩm hoàn bằng hột ngô, một lần dùng từ 50 đến 70 viên vào buổi sớm và buổi chiều, uống với rượu hoặc nước muối. Trị đầu phát thoát vậy.

“Ngoại khoa chứng tông” Nhuận cơ cao : dầu vừng 4 lạng, đương quy 5 đồng, tử thảo 1 đồng, cùng cho vào nấu, lọc lấy nước trong, lại cho dầu nấu lần thứ hai, cho tro sáp ong 5 đồng, để nguội lấy thuộc sát vào chỗ đau, trị chứng thốc sang can (đầu không mọc tóc, khô). Hay là chứng bạch bán rôm sẩy ngứa

Bài viết liên quan

Leave a Comment