Hội chứng bệnh theo YHCT

Chứng tỳ thận dương hư

Khái niệm

Chứng hậu Tỳ Thận dương hư tức ỉà chứng hậu phức hợp giữa Tỳ dương bất túc và Thận dương hư suy. Nếu bệnh ở Tỳ liên lụy đến Thận dẫn đến Tỳ Thận dương hư, thì biểu hiện lâm sàng chù yểu là Tỳ dương bất túc. Nếu bệnh ở Thận liên lụy đến Tỳ dẩn đến Tỳ Thận dương hư thi biểu hiện Thận dương hư suy rất rõ ràng. Lâm sàng gặp rất nhiều loại trên cho nên nói chung cái gọi là chửng Tỳ Thận dương hư phần nhiều là chỉ bệnh d Tỳ Mên lụv đến Thận tạo thành âm hàn thịnh ở trong mát chức năng vận hóa. cho đến các bệnh biến thủy dịch đình trệ gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chứng Tỳ Thận dương hư là cơ thể lạnh châh tay Iậnh, gày còm mệt mỏi, bụng dưới lạnh đàú, ỉa chảy ra nguyên đồ ãn, ngũ canh tiết tả, lưng mỏi gối lạnh, tiểu tiện vặt. giỏ giọt không gọn bãi, đêm đi tiểu nhiều lần hoậc khó tiểu tiện, mật và chân tay phù nề thậm chí thủy cổ trướng đày, dương nuy di tinh, phụ nữ tử cuhg lạnh không thụ thai, đái hạ trong loãng, chất lưỡi nhạt bệu có vết răng mạch Tràm Trì Tế Nhược.

Chứng Tỳ Thận dương hư trên lâm sàng thường gặp trông các bệnh Hư lao, Tiết tả, Ly tật, Thủy thũng, Cổ trướng, Nuy chứng và Tiện huyết v.v.

Làm sàng càn chẩn đoán phân biệt với các chứng Tỳ dương hư và Thân dương hư đơn thuàn và các chứng Tỳ hư thấp khốn,

chứng Phế Tỳ Thận dương hư.

Phân tích

Vì Tỹ-dương bất túc hoặc Thận dương hư suy tạo nên bệnh chứng, phát triển thêm một bước là bệnh Tỳ liên lụy đến Thận, hoậc là bệnh Thận liên lụy đến Tỳ cd thể dẫn đến chứng Tỳ Thận dương hư. Chứng Tỳ Thận dương hư xuất hiện trong các tật bệnh khác nhau, biểu hiện lâm sàng thường không nhất trí; Cần phân biệt cho rỗ.

T Như bệnh Hư lao xuăt hiện chứng Tỳ Thận dương hư; Hoặc là do mệt nhọc nội thương, lo nghỉ hại Tỳ, Tỳ mất chức nãng vận hóa, kém ãn đại tiện nhão hoặc ỉa chảy, bệnh lâu ngày thì thể trạng gày cèm bạc nhược, khí bẫt tục thì Dương tiếp tục Hư. Dương hư thì hàn sinh ra, sẽ thấy các hiện tượng về hàn như sợ lạnh chân tay lạnh.

Phát triển thêm bước nữa. thì lưng đùi lạnh mỏi. di tinh dương nuy, xuăt hiện hàng loạt chứng trạng nối tiếp của Thận dượng bất . tục, đây là bệnh Tỳ liên lụy Thận xuất hiện chứng Tỳ Thận dương hư.

Nếu do bệnh Thận liên lụy đến Tỳ của chứng Tỳ Thận dương hư hpặc do phú bẩm tiên thiên bất túc hoặc do hậu thiên chãm sóc không cẩn thận, ham muốn buông thả, trước tiên dẫn đến Thận dương hư suy, có các chứng trạng cơ thể lạnh tay chân lạnh, lưng đùi lạnh mỏi và dương nuy di tinh. Vì Thận dương suy không làm ấm áp được Tỳ dương, đến nỗi Tỳ dương hư xuất hiện các chứng mẵt chức nâng kiện vận, kém ăn, đau bụng ỉa lỏng, gày còm, tinh thần mệt mỏi v.v. Về điều trị nên ôn bổ Tỳ Thận, mục Hư tổn lao sái nguyên lưu sách Thẩm thị tôn sính thư viết :”Tỳ Thận nên theo phép chữa Kiêm Bổ… Thận hư nên Bổ, lại càng nên phù Tỳ; Tức là muốn mạnh Tỳ thì đừng quên dưỡng Thận.

“Cho nên Hứa Học sỉ mới có thuyết Bổ Thận không bàng bổ Tỳ và bổ Tỳ không bầng bổ Thận. Lý lùậii của hai nhà tuy trái ngược nhau nhưng đã vạch ra phép trị chủ yếu chứng Hư lao”; Chủ yếu là bệnh từ Tỳ liên’ lụy đến Thận thì lấy bổ Tỳ làm chính; bệnh từ Thận liên lụy đến Tỳ, chủ yếu lấy bổ Thận làm chính, đềng thời lại nên kiêm bổ Tỳ Thận, cho dùng bài Phụ tử lý trung thang <Diẻm thị tiéu nhi phương luận) hợp với Hữu quy hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư) ‘gia giảm.

Nếu bệnh Tiết tả mà thấy chứng Tỳ Thận dương hư, phảỉ thấv ở người bị bệnh tiết tả lâu ngày, Tỳ dương không mạnh, thủy cốc khòng tiêu hóa được, phần nhiều ìa chảy trong loãng ra ngúyên đồ ăn; Thận dương bất túc thỉ phần nhiều ia chảy vào tảng sáng, tức như gọi là Kê minh tiết tả hoặc Ngữ canh tiết tả, và một loạt các hiện tượng âm hàn dương hư như bụng dưâi lạnh đau, sợ lạnh chân tay lạnh; Diều trị nên ôn bổ phàn Dương củạ Tỳ Thận, cho uống Phụ tử Lý trung thang (Diêm thị tiều nhi phương luận) hợp với Ngũ vị tử tán <Phổ té bản sự phương) hoặc Tứ thần hoàn (Phụ nhăn lương phương) gia giảm.

Trong bệnh Lỵ tật gặp phứng Tỳ Thận dương hư phải là ỉoại Ly kéo dài không dứt thuộc Hư hàn, bụng dưới lạnlí đau nặng trệ, chất bài tiết trấng nhu phân vịt có kèm nhiều nhầy trong dính, đtí là Tỳ Thận hư hàn, cửa ngõ không kín gây nên; điều trị nên ôn bổ Tỳ Thận chỉ lỵ cố thoát, cho uống Thuần dương chân nhân dưỡng Tạng thang (Hòa tễ cục phương) hoặc Tiêu ngải hoàn (Thiên kim phương) gia giảm.

Nếu bệnh Thủy thũng có chứng Tỳ Thận dương hư, như lời nói của Trương Giới Tân trong mục Thủy thũng sác Trương thị y thông: “Thủv tuy bị chế bởi Tỳ mà thực là chủ ở Thận. Thận vốn là Thủy tạng có nguyên khí ngụ ở trong, nếu dương hư trong Thận thì Mệnh môn hỏa suy, đã không tự hạn chế dược âm hàn lại không ôn dưỡng được Tỳ Thổ”. Bởi vì Tỳ Thân dương hư, thủy ẩm không hóa ra chất tân dịch mà biến thành thủy tà; “thủy thịnh hỏa suy thì thành bệnh thấp, cho nên hỏa không hóa được thì Âm sẽ không theo Dương, mà tinh khí đều hóa ra thủy cả, cho nên chứng Thủy thũng phần nhiều thuộc Dương hư”.

Thủy thũng thuộc chứng Tỳ Thận dương hư phải là mác thủy thũng đã láu, đầu mặt chân tav toàn thân phù thũng từ lưng trở xuống nặng hơn, tiểu tiện không lợi, sợ lạnh tay chân mát. lưng lạnh ê mỏi và nặng, sáu bộ mạch đều Trầm Phục;, điều trị nên ôn Tỳ bổ Thận, cho uống Phục nguyên đan (Trương thị ỵ thông) gia giảm,, hoặc dùng Chân võ thang (Thương hàn luận) gia các loại thuóc ôn thông Tỳ Thận.

Chứng Tỳ Thận dương hư xuất hiện trong bệnh Cổ trướng, biểu hiện lâm sàng chỉ riêng bung Trướng to, về chiều bệnh nặng hơn, chi dưới phù thũng, tiểu tiện không ỉợi, chân tay lạnh tinh thần mỏi mệt, chất lưỡi nhạt bệú hoặc có màu xanh rất rõ, rêu lưổi tráng nhuận mà trơn, vl Tv dương hư thì thổ không chế thủy mà thủy tràn lan; Thận dương hư thĩ thủy không có chủ mà không chịu lưu hành, tạo nên Cổ trướng ma,chân sưng và bụng to; điều trị theo phép ôn bổ Tỳ Thận, hóa khí hành thủy, tức như ý nói “ôn bổ thì cđ thể hóa khí, tắc nhân tác dụng*, cho uống bài Thận khí hoàn (Tể sinh phương) gia giảm hoậc Phụ tử lý trung thang <Đìẽu thị tiểủ nhi phương luận) hợp với Ngũ linh tán (Thương hàn luận.) gia giảm.

Trong bệnh Nuv có chứng Tỳ Thận đương hư, cơ thể khiếp nhược, ch&n tay lạnh, sác mặt trắng bệch, sụp mi mát, chân tay yếu ớt thậm chí không đi đứng được uống nước cũng không có sức nuốt. Về cơ chế bệnh. Lý Dồng Viên viết trong ^Tỳ Vị tháng suy luận sách Tỵ Vị luận, đại đê’ cho ràng do Tỳ VỊ hư nhược “Tỳ mác bệnh thỉ ở hạ lưu lán Thận, thổ khác thủy thỉ xưang bát lực, đó là Cốt nuy, làm cho xương tủy người ta rỗng không, chân không đi được” Diều trị theo phép ôn. bổ Tỳ Thận, cho uống bài Quy Tỳ thang Tế sinh phương) hợp với Hữu. quy hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư) gia giảm.

Chứng Tỳ Thận dương hư gặp trong bệnh Tiện huyết là do huyết từ trong Vị, phân ra trước huyết theo sau là “Viễn huyết” hoặc còn gọi là “Àni kết hạ huyết”; đại tiện tuy rắn, sác đen dễ ra, hoặc chất bài tíết ra như sơn đen, mục Tiệu huyết sách Huyết

. chứng luận co’ viết: “Chứng này mạch phải Tế vô lực, môi nhợt miệng hòa, chân tay mát lạnh”. Bởi vì Tỳ khí hư hàn, dượng khí hạ hăm, trung cung không giữ gìn được, huyết không giữ được mà bài tiết ra; Điều trị nên ôn dựỡng Tỳ Thận để chỉ huỵết, cho uống Hoàng thổ thang (Kim Qũi yếu lược) gia giảm. Nếu Tỳ khí không bền. Thận khí suy vi, sắc mật vàng bủng, chân tay mát lạnh quyết nghịch, sáu bộ mạch Vi Nhược mà phù nhẹ, nên đại bổ Tỳ Thận, cho uống Nhân sâm dưỡng vinh thang (Hòa tẽ cục phương) hợp với Đoạn hồng hoàn <Huyết chứng luận) gia giảm

Thận là gốc của Tiên Thiên, cần có sự bổ xung nuôi dưỡng không ngừng chất tinh vi thủy cốc ở Tỳ VỊ, cho nên các loại Hư chứng, đa số trách cứ vào cbố bất túc củạ hai tạng Tỳ Thận; Chứng Tỳ Thận dựơng hư là biểu hiện khá nặng, phần nhiều do tiến triên biến hóa các tật bệnh mạn tính gẩy nên. Tuy là dương hư nhưng tựu trung Tỳ đương hư khá rõ rệt, hoậc có thể là Thận dương bất túc khá nặng, không thể không phân biệt. Trong chỗ tật bệnh xuất hiện khác nhau, chứng trạng cũng không giống

nhau, nêtì xem xét ỡho kỹ. *

i í

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Tỳ dương hư với chứng Tỳ Thận dương hư, cả hai cùng là chứng Dương hư dương khí bất túc. Loại trên chi là chúng hậu đdn thuần Tỳ dương bất túc, loại dưới thì là chứng hậu phức hợp do bệnh Tỳ liên lụy đếri Thận hoặc bệnh Thận liên lụy đến Tỳ tạo thành Tỳ Thặn đương hư:

Tỳ dương, bất túc là dương khí ở trong và ở ngoài bất túc, tạo thảnh chứng hậu có biểu hiện chủ yếu nhự ăn uống không tiêu hóa và thủy thấp không biến hóa. Chứng Tỳ THận dương hư cđ khả nâng là chứng Tỳ dương hư thứ phát dần dàn tạo thành, ngoăi những chứng trang của Tỳ dươíig bất túc, phải co cả biểu hiện Thận dương suy thoái.

Cả hai cùng là Hàn chứng, cho nên cơ thể lạnh chần tay ỉạnh, mật tráng bệch mạch Tràm; Tỳ dương hư íhì mất chức nặng vận hóa, ỉa chảy ra thủy cổc không tiêu. Thận dương hư cũng ia chảy ra nguyên đồ án, nhưng so với Tỳ dương hư nặng hơn, bụng dưới lạnh đau, ngũ canh Thận tiết. Mục Tâm Tiểu trưòng Tỳ vị bệnh sách Phổ tế bản sự phương viết: “Vì Thận khí khiếp nhược, chân nguyên suy kém, tự bản thân không tiêu hóa được đồ ăn uống, thí dụ như đặt thủy cốc vào trong cái nồi mà phía dưới lại không cd lửa. như thế suốt ngày gạo cũng không chín, hỏi còn biến hoa sao được”.

Tỹ dương hư thủy thấp không biến hóa, phát sinh bệnh chứng thấp đọng, thủy tụ trở thành đàm ẩm thủy thũng, mà Tỳ Thận dương hư lại do hạ tiêu nguyên dương hỏa suy, không hóa được khi. áê biểu hiện các loại chứng trạng tiểu tiện không lợi, lưng gối nàng nề và lạnh mỏi v.v.

Chứng Thận dương hư với chứng Tỳ Thận dương hư, cả hai cùng là chứng dương hư; vì Thận dương hư từ trước, Mệnh môn hỏa suy không sưởi ấm được Tỳ Thổ, đến nỗi Tỳ dương suy dần mẵt chức náng kiện vận, hình thành chứng Tỳ Thận dương hư; Cả hai cùng biểu hiện các loại chứng ttạng mất chức năng khí hóa như cd thể lậnh tay chân lạnh do âm hàn thịnh ở trong, thổ mất sự kiện vận gây nên đau bụng ỉa chảy và thủy thũng, nhưng chứng Thận dươiig hư trọng điểm là Mệnh môn hỏa suy, hạ tiêu mệt mỏi, lưng gối lạnh mỏi, nguyên đươíig bất túc, biểu hiện chứng trạng dương nuy; nữ giới thì tử cung lạnh khổng thụ thai. Tuv ở trong chứng Tỳ Thận dương hư. có chỗ tồn tại về trình độ khác nhau, nhưng rõ ràng là không giống chứng Thận dương hư đơn thuần.

Chứng Tỵ hư thấp khốn với chứng Tỳ Thận dương hư: Chứng Tỳ hư thấp khốn nếu do Tỳ dương khồng mạnh mà Hàn thấp khốn Tỳ, với chứng Tỳ Thận dương hư cùng là chứng Dương hư âm hàn, nhưng Hàn thấp khốn Ty lấy biểu hiện chủ yếu là Hàn thấp thịnh ở trong, hoặc là Đàm ẩm, hoặc là Thủy thũng phần nhiều là chứng chính hư tà thực cho nên lời bỉnh luận trong thiên Thũng trướng sách Lâm chứng chỉ nam V án. Từ linh Thai nói: “Gây nên bệnh trướng đầy, tức là làm cho chính khí hư, cuối cùng là thuộc tà khí thực”, “Chướng đày phải là vật hữu hình, nên dùng thuốc hạ từ từ”. Chứng Tỳ hư thấp khốn Ỷới chứng Tỳ Thận dương hư. đều có thể biểu hiện ỉa chảy và thủy thũng, nhưng loại trên nhẹ mà loại dưối nặng. Loại irên lấy thấp nặng là rõ rệt cho nên thân thể nặng nề khổ sở; Loại dưới lấy Dương hư là nặng, cho nên cơ thể lạnh, tay chân lạnh. Biểu hiện lâm sàng của hai chứng có nặng nhẹ khác nhau, phân biệt không khó.

Chứng Phế Tỳ Thận dương hư với chứng Tỳ Thận dương hư: Chứng Phế Tỳ Thận dương hư trên thực tế là chỉ Phế khí hư vệ dương không bền, cd các chứng khái suyễn, tự ra mồ hôi; do Tỳ dương bất túc, mất quyền vận hóa, có các chứng ân kém, đại tiện nhão, sợ lạnh, mệt mỏi; do Thận khí hoặc Thận dương hư suy dẫn đến các biểu hiện chân tay không ấm, đoản hơi thiếu khỉ, tức là Thận không nạp khí. Phức hợp ba loại chứng hậu này gọi là chứng Phế Tỳ Thận dương hư, trọng điểm ở chỗ khí không tuyên thông, không giáng, không nạp và không bền; Về điều trị nên ôn Thận, kiện Tỳ. bổ khí củng cố gốc bệnh, khác nhau rất xa đối với chứng Tỳ Thận dương hư do âm hàn thinh ở trong, mít quyền vận hóa. thụy thãp đinh tụ là chủ yếu, biểu hiện lâm sàng thường gặp là sợ lạnh, ỉa chảy, thủy thũng; có thề cân cứ chộ khác nhau đó mà chẩn đoán phân biệt.

Trích dẫn y văn

Hay uống, đại tiện lỏng, tiểu tiện rít. ngực đày kém ân. đùi và chân phù dần là chứng thuộc Tỳ Thận tíư hàn, dùng bài Gia giảm Kim Qũi Thận khí hoàn; an được thì thũng tiêu, iại dùng Bát vị hoàn. VỊ khỏe thì Tỳ mạnh nìầ bệnh khỏi ‘Tỳ Thận hư tồn đình thực tiết tả đàng chứng – Nội khoa trich yéu).

Bài viết liên quan

Leave a Comment