Hội chứng bệnh theo YHCT

Chứng hàn trệ can mạch

Khái niệm

Chứng Hàn trệ Can mạch là chỉ hàn tà xâm phạm vào Can kinh, gây nên sơ tiết thát thường, khí huyết ngưng trệ, biểu hiện các chứng hậu chủ yếu như hàn ngưng khí trệ gây đau ở bụng dưới.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là bụng dưới trướng đau, lan toả tới Cao hoàn trệ và đau, thậm chí âm nang teo quát, gặp nhiệt thì giảm đau, sợ lạnh, tay chân lạnh, sác mặt tráng bệch, tiểu tiện trong dài, phụ nữ thì đới hạ trong lạnh, thống kinh, rêu lưỡi tráng trơn, mạch Trầm Huyền hoặc Trầm Khẩn mà Trĩ.

Chứng Hàn trệ Can mạch thường gập trong các bệnh Sán khí, Phúc thống, Thống kinh.

Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Hàn tà phạm VỊ, chứng Can dương hư.

 

Phân tích

Chứng Hàn trệ Can mạch vì cảm nhiễm hàn tà có nặng nhẹ khác nhau, phú bẩm có khỏe yếu không giống nhau, bộ vị bệnh biến tiên dưới cũng không giống nhau, cho nên trong tật bệnh khác nhau, biểu hiện lâm sàng cũng có đặc điểm riêng, phép trị cũng không giống hẳn nhau, cần phân tích kỹ.

Trong bệnh Sán khí xuất hiện chứng Hàn trệ Can mạch, nếu là chứng nhẹ thỉ chỉ tháy bụng dưới đau lan tỏa tới Cao hoàn trệ và trướng tình thế bệnh đau vừa phải, bộ yị mác bệnh chủ yếu ở bụng dưới, kèm theo các chứng cơ thể lạnh, tay chân lạnh, rêu lưỡi tráng trơn, mạch Trầm Huyền v.v… Vì hàn tà khá nhẹ, khí cơ nghẽn trở không nặng lắm, điều trị nên ấm Can tán hàn, Ồn thông cùng dùng, chọn bài thuốc Noản can tiễn (Cảnh Nhạc toàn thư). Nếu là chứng nặng thì bụng dưới có từng cơn đau quanh rốn, thậm chí đau như thát, khi đau co rút tới Cao hoàn, kèm theo các chứng ố fiàn, ra mô hôi, chân tay quyết lạnh, mạch Huyền ííhẩn; Vì âm hàn kết ở trong, Dương khí suy vi, điều trị nên tán Kìn giảm đau, cho uống bài Đại ô đầu tiễn fKim Quỹ yếu lược).

Trong bệnh Phúc thống xuất hiện chứng Hàn trệ Can mạch cũng lấy chứng trạng đau bụng dưới làm chủ yếu, nhưng xu-thế đau có thể lan tỏa toàn vùng bụng và hai bện sườn, hơn nữa còn có cảm giác co rút khác với co rút của chứng Sán khí Cao hoàn đau, điếu trị nên sơ Can lý khí, ôn tản kết hợp, cho uống bài Thiên thai ô dược tán (Y học phát minh).

Chứhg Hàn trệ Can mạch xuất hiện trong bệnh Thống kinh, biểu hiện lâm sàng là đau bụng dưới, phàn nhiều xảy ra trước khi hành kinh, sác kinh đen và trong loăng, chân tay mát lạnh, gặp ấm thì đỡ đau. đái hạ đầm đỉa, lưỡi nhợt rêu lưỡi tráng nhớt, mạch Trầm Tế, điều trị nên ôn kinh lý khí, tán hàn chỉ thống cho uống Ôn kinh thang (Kim Quỹ yếu lượcj gia giảm.

Chứng Hàn trệ Can mạch tuy có thề gặp trong các tật bệnh khác nhau, nhưng hàn tà ngưng trệ ở Lạc mạch của Can, vì cđ bệnh cơ cộng đồng, cho nên chứng này hay phát sinh ở người dương khí bất túc, âm hàn thịnh ở trong, vì dương hư sinh nội hàn, hàn ngưng thì đau. Trong quá trỉnh diễn biến bệnh cơ, thường kèm theo hai tình huống, một là vỉ hàn tà phạm ở bên ngoài, khí cơ của Can kinh bị trỏ trệ, biểu hiện chủ yếu là Tà

Thực; Hai là vì thể chất vốn dương hư âm hàn thịnh ở trong, hàn ngưng Can mạch, biểu hiện chủ yếu là Hư Hàn. Nhúng càn nêu rõ, trong quá trình diễn biến phát triển củá tầt bệnh, Hàn ngưng cũng có thể hóa nhiệt, Hàn ngưng mạch tê nghẽn cũng cổ thể thành huyet ứ. Những kiêm chứng này không thế không phân biệt.

 

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Hàn ta phạm Vị với chứng Hàn trệ Can mạch: Hàn là âm tà, chủ ,về co rút ngưng đọng thu liễm, cho nêíi hàn ngưng khí trệ phải gâv nên đau, đau là chứng trạng cộng đồng của hai chứng. Nhưng chứng Hàiĩ tà phạm Vị là thuộc về VỊ bị hàn tà, hoà giáng mất chức nãng, khí trọc âm kèm với đờm rãi nghịch lèn gây nên, iám sàng có thế thấy các chứng đau vùng bụng, mửa khan, thổ ra bọt rãi V.V.. Mà Hàn trệ Can mạch thì do mạch của Quyết âm “men theo bụng dưới, qua âm khí, phân bô’ ở hai bên. sườn”, vị trí đau thường ở bụng dưới, nặng hơn thì đau rút tới Caọ hoàn hoặc co rút sang hai bên sườn; Có thể thấy bộ vị đau của hai chứng khác nhau.

Chứng Can dương hư với chứng Hàn trệ Can mạch: Sách Thánh huệ phương có câu “Can hư thì sinh hàn”, chứng Can dương hư là do dẫn đến Hàn, thuộc vê Hư hàn Chứng Hàn trệ Can mạch là do Hàn gây bệnh, nghiêng vê Thực hàn. Một hư một thực, tính chất khác nhau. Cả hai đều có thể thấy bụng dưới hoặc vùng bụng đau và có hiện tượng “Hàn” ở mức độ khác nhau, nhưng đau của chứng Can dương hư là cái đau êm dịu, ưa ấm ưa xoa bóp và có thêm tinh thàn ủ dột không vui, đau đàu hoa mát, ngực sườn đầy đau, biếng nói, hay thở dài, mỏi mệt đoản hơi, chân tay lạnh, đại tiện nhão, lưỡi nhợt, mạch Hư Huyên thuộc chứng Dương hư. Còn chủng Hàn trệ Can mạch thì đau thưởng giới hạn ở bụng

dưới và có từng cơn đau, xu thế đau từ nhệ đến nặng và có đặc điểm là xông xáo căng gấp. Loại trên chú trọng vào 01) dường Can dương; loại sau chú trọng vào Ôn tản Can hàn.

 

Y văn trích dẫn

Hàn khí ấn náu ở mạch của Quyết âm; Mạch Quyẽt am, liên lạc qua bộ phận sinh dục, thuộc vào Can. Hần khí ẩn nâu ỏ trong mạch thì máu đi ngập ngìíng mà mạch căng gấp, cho nên đau rút cả sườn và bụng dưới ‘Cử thống luận – Tố VătiỊ

■ Chứng Can hàn, mạch ở tà quan phải Trầm Tri, có triệu chứng đau ở bụng dưới, là Sán hà, ỉà Nang xúe. là hàn nhiệt vâríg lai (Bút hoa y kinh).

Bài viết liên quan

Leave a Comment