Hội chứng bệnh theo YHCT

Chứng can huyết hư

Khái niệm

Chứng Can huyết hư là tên gọi khái quát cho những chứng trạng do Can huyết bất túc, gân mạch mất nuôi dưỡng, xuất hiện gân mạch co rút, mát nhin mọi vật lờ mờ, móng tay chân gẫy ròn, chất lưỡi nhợt, mạch Huyên Tế v.v. Bệnh phân nhiều do mẩl huyết quá nhiêu hoặc nguồn sinh hda ra huyết bất túc và ốm lâu bị hao thương Can huvết gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là sác mặt xanh nhợt hoặc vàng bủng, thê’ trạng gày còm, hai mát khô rít, quáng gà hoặc nhìn vật lờ mờ, hoa mát ù tai, tay chân t é dại, hoặc gân mạch co rút, móng tay chân không tươi; đối với phụ nữ có thể thãy hành kinh lượng ít sác nhợt thậm chí bế kinh, miệng môi và chất lưỡi tráng nhợt, mạch Tế hoặc Huyền Tế.

Chứng Can huyết hư thường gặp trong các bệnh Hư lao, Huyễn vậng, Bất mị, Ma mộc, Tước manh, Kinh nguyệt không điều, Thống kinh v.v.

Càn chẩn đoán phân biệt với các chứng Tâm huyết hư; chứng Huyết hư sinh phong, chứng Can âm hư và chứng Can uất huyết hư.

Phân tích

Chứng Can huyết hư có thê’ gặp trong nỉiiều loại tật bệnh, biểu hiện lâm sàng không hoàn toàn giống nhau, cần phân tích kỹ.

 – Trong bệnh Kinh nguyệt không điều củà Phụ nữ xuát hiện chửng Can huyết hư thl cổ đậó đỉểtn lã hành kinh rá muộri, lượng, ít, chất loãng, thậm chí Bế kinh; đây là do Can htỉyết bất túc, huyết hái rỗng khổng thể đầy đủ theo đúng thời gian &ã định nên thành bệnh, điều trị nên theo phép bổ Caih dưỡng huyết điềủ kinh, ehọn dùng bài Tiểu đoanh tiễn (Căiih Nhạc Mằn thư).

Nếu Can húyểt hư gặp trong bệnh Thống kinh, cđ đặc điểm là khi đang hành kinh hoặc sáu khỉ hành kỉnh, bụng dưới đaủ âm i ĩiên miên, ưa xoa bóp, lưng gối yếu, chóng Itìặt ù taỉ, mạch Tràm Huyền mà Tế; bệnh phần nhiều do Caii huyết bất túc, tổn hại tới Thần tinh,rhai mạch Xung Nhâm đều hư, Bào mạch mất sự nuôi dưỡng gây nên bệnh; điều trị nên điều bổ Can Thậĩi, dùng bằi Điều cah tán (Phò thánh chủ nữ khoa).

Tròng bệnh Hư lao gặp chứng Can huyết hư, biểu hiện lâm sàng có những đặc điểm sấc mặt khống tửơi, tíiể trạng gầy còm; chân taý mình mẩy tê dại hoặc gân mạch co rút, móng tay chân khô ròn, thậm chi biến dạng; đó là do cán huyết bất túc, gân mạch không được nuôi dưỡng gây nên tíệnh; điều trị nên bổ húyết dứỡng Can, chb uống Bố Can thang (Y tôìig kim giám).

Trong bệnh Tước manh (quáng gà) gặp chứng Can huyết hư, thường có những chứng trạng đặc điểm là nhìn sự vật tối xầm, vè tối quáng gà, trống mát khô sáp mà đau lan tỏa tới cả xương quàng mắt, bệnh phần nhiều do Can húyết bất túc, thanh khiếu khống được nuôi dưỡng gây nên; Sách Bút hòà y kính có nổi: Can bị íiư là do Thận thủy không hàm mộc lắm cho huyểt thiếu, mạch ở tả quàn tất phải Nhứợc hoậc Đại mà rỗng không, có các chứng trạng đau sườn, chổng mật, mắt khô và xương quầng mát đaũ v.v, điều trị t)ên tư Can dưỡng huyết làm cho sáng mắt, chó uống bãi Tứ vật thang (Thái bình huệ dăn hòa tẻ cục phương) gia vị, Chứng Can huyết hư gặp trong bệnh Bất mỵ, có những chúng trạng đặc điểm như mất ngủ, hay mê, dễ sợ hãi, chóng mật hoa mắt, mạch Huyền Tế; phần nhiều do Can huỷết bất túc, thần thức không được nuổi dưỡng, hồn không chỗ ẩn náu mà thành bệnh; điều trỊ nên dưỡng huyết, bổ Can, an thần, cho uổng bài Toan tảo nhân thang (Kim qui yếu lược) gia giảm.

Chứng Can huyết hư thường gặp ỏ người bị mất huyết quá nhiều, doanh huyết hđa sinh bất túc, nhất là phụ nữ hay mác chứng này, biểụiiiện lâm sàng có các chứng trạng hành kinh ỉt, sác nhợt, hành kinh muộn, bế kỉnh, sau khỉ hành kinh đau bụng, thai động khống yên, thiếu sữa và khống thụ thai v.v.

Can chứa huyết, chủ về sơ tiết, lấy huyết làm gổc “thể âm mà dụng dương”; Nếụ huyết dịch đầy đủ thi Can có chỗ chứa, chức nảng sơ tiết mới được bỉnh thường; trái lại Can huyết bất túc, Can mất sự nuối dưỡng thỉ sự sơ tiết thiếu thốn, từ đổ mà xuất hiện các chứng trạng ngực sườn trướng đầỵ, hậm hực khống vui, đa nghi cả nghĩ, thậm chí rầu r! muổn khdc, đđ là thuộc về chứng Cạn khí uất kết’ Nếu huyết hư dương trội nổi, hư nhiệt từ trong sinh ra, thì xuất hiện các chứng trạng về Can dương thượng cang như nóng nẩy hay giận, mất ngủ hạỵ mê, đầu trướng đau, hoa mát chtíng mặt v.v.

Lại ohư Can tàng huyệt, Thận chứa tinh, “tinh huyết cùng một nguồn”) trong quá trinh diễn biến bệnh cơ, chứng Can huyết hư lâu ngày khổng khỏi, thường cố thể dẫn đến Thận tinh suy hư, Ịnà biểu hiện các chứng trạng chóng mặt ù tai, lưng gối mềm yếu, ịóc rụng răng trối, nam giới thì không sinh dục, nữ giới thi không thụ ‘thai… đó là phạm vi chứng Can Thận suy tổn.

T«ường hợp Can huyết bẩt túc, khi cơ khổng thư sướng, huyết đi sáp trệ, thường có kiêm cả chứng khí trệ huyết ứ, biểu hiện, các chứng trạng sưòn đau nhổi, cố định không di chuyển, da dẻ trdc vẩy, ven lưỡi tía tối hoặc ctí nốt ứ huỵết; Níu ứ huyết trở trệ, huyết mới khổng sinh ra được, lại dẫn đến Cạn huyết sụy hư, hai loại ảnh hưãng lẫn nhau, khiến cho bệnh dằng’.dại lâu khỏi.

 

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Tâm huyết hư với chứng Can húyết hư: Tâtn chỏ huyết mạch, Can chứa huyết; Nếu Tâm huyết bát túc, thường thấy cả Can huyết hư; Nếu Can huyết bất túc, Tâm huyết cũng do đó mà bị tổn hại. Cho nên trên lâm sàng hai chứng này có chỏ gàn giống nhau, đều cd thể xuất hiện các chúng trạng về huyết hư như sắc mặt trắng nhợt hoậc vàng bủng, môi miệng và mđng tay chàn nhợt, chổng mặt, chất lưỡi nhợt, mạch Tế v.v. Vi vậy cần phải chẩn đoán phân biệt. Nđỉ theo nguyên nhân gây bệnh, chứng Tâm huyết hư phần hhiều đo mất nhiều máu, ngudn sinh hơa ra huyết không đủ; cho đến tư lự quá độ, hao thương Tâm huyết gây nên bệnh;. Tâm huyết bất tóc, Tâm mất sự nủôi dưỡng cho nên hồi hộp, thậm chí sợ hâỉ liên tục; Tâm chúa thần, chủ về thần chí, huyết không nuôi Tâm, thần khống chốn ở cho nên mất ngủ, hay mê, chđng quên, thần chí khổng yén. Chứng Can huyết hư cũng cđ thể do mất nhiều huyết, nguồn hóa sinh huyết bất túc, cho đến Ốm lâu làm hao thượng Can huyết gây nên bênh, vi Can chủ về gân, vẻ tươi đẹp hiện ra ở móng tay chân, khaị khiếu lên mắt; Can huyểt bất túc khống nuôị dưỡng được các khiếu, cho nên hai mắt khố rít, nhìn mọi vật lờ mờ, quáng gà, nặng hơn thì mắt mờ; Can huỳết suy hư không nuồi dưỡng được gân mạch thì tay chân tê dại, hoặc gân mạch co rút, mđng tay chân kém tươi; Can là huyết hải, Can huyết bất túc thỉ huyết hải rỗng khống, khống cổ gì để hổa sinh ra kinh huyết, cho nên hành kinh thường muộn, lượng ít, thậm chí bế kinh; Huyền là mạch của Can, Tế là mạch thuộc huyết hư, chứng Can huyết hư phần nhiều thấy mạch Huyền Tế. Tđm lại, tính chất hai chứng bệnh tuy giống nhau, nhưng bộ vị mác bệnh khác nhau; một bệnh ở Can, một bệnh ở Tâm, có thể chẩn đoằn phân biệt được.

Chứng Huyết hư sinh phong với chứng Can huyết liu, cả hai đều do huyết hư gây nên, đều biểu hiện lâm sàng Can huyết bất túc như các chứng trạng hai mắt khô rít. mẫt trông lờ mờ không tỏ, sắc mặt không tươi, chân tay tê dại hóặc gân mạch co rát, chất lưỡi nhạt, mạch Huyên Tế v.v. Nhưng hai chứng này có có nặng nhẹ khác nhau. Huyết hư sính phong píiần nhiều íio chứng Can huyết hư phẵt triển thêm một bửớc, bệnh tỉnh nặng hơn, bởi vì Can huýết suy hư, gẫu mạch khòng đữỢc nuôi dưỡng, hư phong nội động đến nỗi ngoài da ngứa ngáy, tứ chi lẩy bẩy nặng hơn thỉ co giật, chân tay tê dại, khác hản với chứng Cạn huyết hư chi đơn thuần là huyết hư, không có hiện tựợng phong động; chẩn đoán phân biệt không khó. ■

Chứng Gán âm hư với chứng Can huyết hư; Can huyết fà chi huyết dịch chứa ở tạng Can, thuộc Ấm. Cho nên Can huyết hư có thể phát triển thành chứng Can âm hư. Hai chứng này vị ti*ỉ bệnh ở tạng Can, cùng thuộc Hư chứng của Can; Nguyên nhân bệíih, cơ chế bệnh, biểu hiện lâm sàng mười phần giống nhau. Chứng Càn huyết hư phàn nhiều do mất nhiều máu, nguồn hóa sinh ra huyết bất túc, do ốm lầu, bệnh nặng hao thương, Can huyết gây nên bệnh. Còn chứng Can âm hư có thể từ ckứng Can huyết hư phát triển thêm một bước, cũng có thể do Thận âm suy hao, thủy không hàm mộc, tinh không htía ra huyết, hoặc thời kỳ cuối của bệnh nhiệt bị hun đốt âm dịch, cho đến Can uất hóa hỏa, ngấm ngầm làm hao tổn Can âm gây nên bệnh. Đặc điểm lâm sàng không giống nhau: Chứng Can huyết hư, là vì hụyết hư khống làm tươi tốt đàu mật cho nên sác mặt tráng nhợt hoặc úa vảng, môi nhợt; Còn chứng Can âm hư là vì âm không chẽ dương, hư nhiệt từ trong sinh ra, cho nén sác mật đỏ bừng, môi đỏ miệng khô; có thêm cả chứng trang âm hư nội nhiệt như ngũ tâm phiên nhiệt, hư phiền mất ngủ. triều nhiệt mồ hôi trộm, tiểu tiện vàng, đại tiện khô V V.

Chứng Can huyết hư phần nhiẽu có chất lưỡi nhợt, mạch Huyền Tế, chứng Cạn âm hư thì chất lưỡi đỏ tươi và ít rêu, mạch Huyền Tế Sác. Ve phụ nữ mà nói, Cạn, huyết hư thì huyết hải không đầy, có thế biểụ hiện chứng kinh nguyệt ra muộn, lượng ít, sác nhợt, thậm chí bế kinh; Do âm hư nội nhiệt, nhiệt ẩn náu ở Xung Nhám, co thê’ nung nấu âm huyết mà có chứng hành kinh ra muộn, ỉừợng kinh hoặc nhiều hoặc ít, hoặc bế kinh . Cũng có thể do hư nhiệt bức huyết đi càn mà có chứng kinh nguyệt thấy trước kỳ, lượng nhiêu sắc đỏ tươi, thậm chỉ cđ chứng trạng băng lậu. Chứng Can huyết hư là do Can huyết bất túc đơn thuần, không có hiện tượng âm hư nội nhiệt. Chứng Can âhi hư ngoài những chứng trạng do âm huyết khuy tổn, hiện tượng âm hư nội nhiệt rõ rệt, đó ià mẫu chốt để chẩn đoán phân biệt.

Chứng Can uất huyết hư với chứng Can huyết hư: Cà hai đếu có biểu hiện Can huyết bất tủc, nhưng về bệnh nhân và bệnh cơ trên lâm sàng cổ đặc điểm khắc nhau. Chứng Can uẵt huyết hư thường do ưu tư tích uất, oán hận không tháo gỡ được, doanh âm bị hao tổn ngấm ngẩm, tạng âm hao thương mà thành bệnh, chứng trạng chủ yếu do ba tạng Tâm Can Thận âm huyết hư suy không nuôi dưỡng được Tâm thầh, như buôn thưcing muốn khóc hoặc cười khtíc thất thường, tinh thầií hoảng hỗt khó kiềm chế được; hoặc nhìn mà như không thấy gì, nghe mà không biết nghe gì, có lúc ngáp vặt, biểu lộ tính chất ranh mãnh ma lanh. Sách Kim quĩ yếu lược nđi: “Phụ nữ bị tạng táo, lo mừng muốn khóc giống như ma làm, thường vươn vai và ngáp luôn, bài Cam mạch- đại táo thang chủ chữa bệnh ấy”, so với (‘.hứng Can huyết bãt túc đơn thuần chẩn đoán phân biệt khống mây khđ khản.

 

Trích dẫn y văn

Can mác bệnh… hư chúng thi mất lờ mò không tỏ, tai không

nghe được, dễ sợ hãi như có người*sáp đến bắt (Tạng khí pháp

thời luận – Tố Văn).

-»>é

Can hậu lên mất mà chứa huyẽt. Huyết thì nuối dưỡng mát. Tạng Phủ bị mệt nhọc, huyết khí đều hư, khí của năm Tạng bất túc không nuôi dưỡng được mắt, cho nên mối nói mắt mờ (Hư lao bệnh chư hậu thượng – Chư bệnh nguỳên hậu luận).

Có mười “chứng thuộc Can hư; ngực sườn đau thuộc Can huyết hư; Rút gân thuộc huyết hự; Tầm mất nhìn không xa, thuộc Can huyết hư và chân âm Thận thủy bất túc; Mắt hoa thuộc Can huyết hư có nhiệt kiêm cả chân âm Thận thủy bát túcế.. Mát huyết quá nhiều, uốn ván, thuộc Can huyết hư có nhiệt… Mắt tối xàm choáng váng, thuộc huyết hư kiêm cả Thận thủy chân âm bất túc (Bản thao kinh sơ, quyển 2).

Huyết hư sinh phong, không phải là có phong đích thực. Sự thật là vì huyết không nuôi gân, gân mạch co rứt, co ruỗi khống được như bình thường, cho nên chân tạy co giật giống như phong động, cho nên gọi là hội hư ám phong, thông thường gọi là Can phong, bệnh Ôn nhiệt giai, đoạn cuổi cùng thường có chứng này, đó là vì nhiệt làm tổn hại huyết dịch (Lục kinh, phương dược – Thông tục Thương hàn luận),

Phụ nữ lấy huyết Ịàm chủ yếu, huyết đủ thì đầy mà mệc khí thịnh; huyết suy thì rihiệt mà mộc khí găng quá. Mộc thịnh hay mộc găng quá, đều dễ sinh giận dữ… Nhưng cơn giận bốc lên thỉ Can huyết tất tổn hại nhiều; Cơn giận bị nén lại thì Can huyết hao tổn ngấm ngàm, .bởi vì Giận là kẻ thù của huyết. (Bút hoa y kính – quyền 4).

Bài viết liên quan

Leave a Comment