Cây thuốc, Vị thuốc

Cây Gai dầu: Vị thuốc có thể gây nghiện

Gai dầu có nguồn gốc ở các nước miền trung châu Á. Việc sử dụng nhựa gai dầu làm thuốc đã được biết từ rất lâu. Hiện nay, việc lạm dụng gai dầu có thể gây tác hại cho sức khỏe. 

1. Mô tả dược liệu

1.1. Tên khoa học, danh pháp quốc tế

  • Còn gọi là hỏa ma, gai mèo, lanh mán, lanh mèo, đại ma, cần sa (y tế), sơn ty miêu, ko phai meo (Thái), khan sau (Lào), khanh cha (Campuchia).
  • Tên khoa học Cannabis sativa L.
  • Thuộc họ Gai mèo Cannabinaceae.

1.2. Đặc điểm thực vật

Cây thảo sống lâu năm, khác gốc, thân thẳng đứng cao 1 – 2m, phân ít hay nhiều cành. Toàn các bộ phận của cây đều phủ một lớp lông mịn. Lá thường mọc cách, có cuống, có lá kèm, lá phía dưới chia thùy đến tận cuống, phiến thùy hình mác, nhọn méo có răng cưa. Lá phía trên thường đơn hay chia 3 thùy. Cây đực thường gầy mảnh hơn cây cái.

Hoa đực mọc thành chùy với 5 cánh đài và 5 nhị. Hoa cái mọc thành xim xen lẫn với lá bắc hình lá, đài hoa cái hình mo, bọc lấy bầu hình cầu, vòi 2 nhụy đính ở gốc bầu hình chỉ, dài hơn bầu nhiều.

Quả bế hình trứng dài 2.5 – 3.5mm, đường kính 2.5 – 3mm. Hạt có dầu.

1.3. Phân bố

Nguồn gốc ở các nước miền trung châu Á, bắt đầu được trồng ở Ấn Độ và Trung Quốc để lấy sợi, sau lan rộng đi nhiều nước ở ôn đới các nước châu Á, châu Âu, châu Mỹ.

Cây này được trồng để lấy sợi, người ta thu hái vào khi cây bắt đầu ra hoa. Ngâm cây vào nước từ 10 – 20 ngày, phơi khô rồi tách sợi ra. Muốn thu quả chờ cho đến khi quả chín.

Gai cho nhựa thường trồng ở những vùng nóng và khô của Ấn Độ, Afghanistan, Ai Cập, nam châu Phi, Mexico.

Tại những nước này người ta thu ngọn mang hoa và quả của cây cái. Tùy theo từng nước người ta thu hái có hơi khác nhau.

1.4. Bộ phận sử dụng

Nhựa cây.

Mô tả cây gai dầu
Mô tả cây Gai dầu

2. Thành phần hóa học

Quả (chenevis) chứa 30% chất dầu có giá trị trong công nghiệp sơn vì bản thân dầu dưới tác dụng của không khí tạo thành màng rắn chắc bảo vệ gỗ và kim loại. Thành phần dầu chủ yếu gồm các glyceride của những axit linoleic và linolenic. Trong khô dầu chứa 30% chất đạm, 10% chất béo dùng làm thức ăn gia súc. Trong chất đạm của khô dầu có chủ yếu chất globulin mang tên edestin.

Ngọn mang hoa cái thường có 5 – 10% độ ẩm, 12 – 14% chất vô cơ (gồm chủ yếu là oxalat canxi trong cây), ít tinh dầu với cacbua tecpenic, cannaben. Ngoài ra còn thấy cholin, trigonellin.

Hoạt chất của ngọn mang hoa cái là một chất nhựa (resin) với tỷ lệ thay đổi tùy theo cách chế biến thu hái và nguồn gốc địa lý. Tỷ lệ nhựa trong những dược liệu của Ấn Độ là 10 – 20% (chất chara thô chứa tới 30%) trong khi đó những ngọn thu ở những cây ở châu Âu thường chỉ dưới 5%, có khi chỉ 1 – 2%.

Nhựa này tan trong cồn cao độ, trong ete, chloroform và đặc biệt hãn hữu trong ete dầu hỏa.

Thành phần hóa học của nhựa được tiến hành nghiên cứu từ cuối thế kỷ 19. Nhưng mới đạt những tiến bộ vào năm 1940 nhờ những công trình nghiên cứu của Cahn, Told và cộng sự ở Anh về gai dầu của Ấn Độ. Ngoài ra còn có những công trình của Adams và cộng sự ở Mỹ về chất marihuana.

3. Tác dụng dược lý

3.1. Tác dụng gây nghiện

Việc sử dụng nhựa gai dầu làm thuốc đã được biết từ rất lâu ở những nước phương đông như Ấn Độ, Trung Quốc, sau đó truyền sang Iran và các nước Ả Rập, châu Âu.

Vị thuốc gây cho người dùng ban đầu có một cảm giác khoan khoái, dễ thở, thần kinh được kích thích, sau đó đến những ảo giác (mất khái niệm về thời gian, không gian, người như phân đôi). Con người trở nên rất nhạy cảm với tiếng ổn, với âm nhạc và rất dễ sai khiến tới mức có thể sai đi gây những tội ác cũng làm.

Với liều cao hơn có thể dẫn đến động tác thiếu phối hợp, trạng thái ngây, một giấc ngủ giữ nguyên thế, có khi những cơn hoang tưởng giận dữ. Hô hấp chậm dần, mạch nhanh, miệng khô, mồ hôi đầm đìa, buồn nôn và nôn.

Việc sử dụng nhựa gai dầu được coi là một chứng nghiện chất độc nguy hiểm như nghiện thuốc phiện và cocain. Nhiều nước đã cấm trồng, sản xuất buôn bán và sử dụng nhựa gai dầu. Nhựa gai dầu nói ở đây được định nghĩa gồm ngọn có hoa và quả của cây gai dầu Cannabis sativa var. indica. 

3.2. Tác dụng giảm đau, kháng khuẩn

Về những chất lấy riêng ra thì axit cannabidiolic không có tác dụng gây tê mê, các tác giả Séc chứng minh các chất này có tác dụng giảm đau và nhất là kháng sinh đối với một số vi khuẩn Gram dương. Điều sau này phù hợp với kinh nghiệm cổ truyền ở một số nước dùng nhựa gai dầu làm thuốc sát trùng và lên da.

Tác dụng giảm đau của nhựa gai dầu là kết quả của tác dụng chung của nhựa đối với vỏ não chứ không phải do một tác dụng tại chỗ.

4. Liều dùng và cách dùng

Về mục đích làm thuốc, nhựa gai dầu được dùng từ lâu đời bôi ngoài với tính chất sát trùng và giảm đau.

Trong y học hiện đại nhựa gai dầu được dùng dưới dạng cồn cao và thuốc để uống trong làm thuốc giảm đau, dịu đau. Dùng ngoài để làm thuốc sát trùng, chữa bỏng:

  • Liều dùng cồn 1/10 (chế bằng phép ngấm kiệt với cồn 90 độ) mỗi lần dùng 0.05g trong 24h tối đa 1g.
  • Cao rượu: ngày uống 0.05g đến 0.1g.
  • Cao lỏng: Ngày uống 0.3 – 0.6g.
  • Nhựa gai dầu: ngày uống từ 0.03 – 0.05g.

5. Kiêng kỵ

  • Những thuốc chế biến từ nhựa gai dầu đều phải theo chế độ những thuốc độc gây nghiện.
  • Việc sử dụng nhựa gai dầu trong y học thường không dùng nguyên cây mà dùng chiết xuất để loại bỏ các chất độc. Đồng thời cần phải được tiến hành dưới sự giám sát của bác sĩ chuyên khoa với liều lượng được quy định chặt chẽ.

Bài viết liên quan

Leave a Comment